Thông tin cơ bản về Vương quốc Campuchia và quan hệ Việt nam – Campuchia

949

TÀI LIỆU CƠ BẢN VƯƠNG QUỐC CAMPUCHIA VÀ QUAN HỆ VIỆT NAM – CAMPUCHIA

I. KHÁI QUÁT CHUNG:
– Tên nước: Vương quốc Campuchia (The Kingdom of Cambodia)
– Quốc khánh: 09/11/1953
– Diện tích: 181.035 km2
– Thủ đô:  Phnôm Pênh (Phnom Penh)
– Các tỉnh, thành phố lớn: Phnôm Pênh, Bắt-đom-boong (Battambang), Kom-pông Chàm (Kompong Cham), Xi-ha-núc Vin (Sihanouk Ville), Xiêm Riệp (Seam Reap).
– Vị trí địa lý: Campuchia nằm ở Tây Nam bán đảo Đông Dương, phía Tây và Tây Bắc giáp Thái Lan (2.100 km), phía Đông giáp Việt Nam (1.137km), phía Đông Bắc giáp Lào (492 km), phía Nam giáp biển (400 km). Sông ngòi: tập trung trong 3 lưu vực chính (Tônlê Thom, Tônlê Sap và Vịnh Thái Lan). Phân bố địa hình: đồng bằng chiếm 1/2 diện tích tập trung ở hướng Nam và Đông Nam, còn lại là núi, đồi bao quanh đất nước.

– Dân tộc: Người Khmer (90%), gồm nhiều loại như Khmer giữa (tiếng Khmer là Khmer Kandal), Khmer Thượng (Khmer Loeur) và Khmer Hạ (Khmer Krom). Các dân tộc thiểu số: người Mã Lai, Chàm, Lào, Miến Điện, Việt Nam, Thái Lan, Hoa (10%).

– Ngôn ngữ: Tiếng Khmer (95%) là ngôn ngữ chính thức. Mọi công dân Campuchia được gọi là người mang “quốc tịch Khmer”. Đạo Phật (khoảng 90% dân số theo đạo Phật) được coi là Quốc đạo.

– Dân số: xấp xỉ 13,38 triệu người (nam 6,5 triệu, nữ 6,9 triệu) với tỉ lệ tăng dân số 1,54%/năm (2008).

– Thu nhập bình quân đầu người: 818 USD năm 2008 (số liệu của IMF)

II. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN:
1. Lịch sử hình thành:Vương quốc Khmer ra đời vào cuối thế kỷ thứ 9 trên lãnh thổ của Phù Nam và Chân Lạp trước đây. Kinh đô lúc đó là Ăng-cô (Angkor). Từ cuối thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ 13, Vương quốc Khmer phát triển cực thịnh. Từ thế kỷ 13 đến nửa đầu thế kỷ 19, các cuộc nội chiến và chinh phục của ngoại bang đã làm cho Vương quốc Khmer suy yếu.

  1. Tóm tắt một số giai đoạn lịch sử quan trọng qua các thời đại:
    – Những năm 60 của thế kỷ 19 thực dân Pháp vào Đông Dương. Năm 1863, Pháp buộc Vua Nô-rô-đôm (Norodom) phải ký Hiệp ước đặt Campuchia dưới sự bảo hộ của Pháp và đến 1884 Campuchia hoàn toàn trở thành thuộc địa của Pháp.

– Năm 1941, Nô-rô-đôm Xi-ha-núc (Norodom Sihanouk) sau khi lên ngôi lần thứ nhất đã vận động cuộc đấu tranh giành lại nền độc lập cho Campuchia. Ngày 9/11/1953, Pháp tuyên bố trao trả độc lập cho Campuchia. Tháng 4/1955, Xi-ha-núc thoái vị nhường ngôi Vua cho cha là Nô-rô-đôm Xu-ra-ma-rit (Norodom Suramarith) để thành lập Cộng đồng xã hội bình dân. Trong tuyển cử 9/1955, Cộng đồng xã hội bình dân đã giành được thắng lợi lớn, Xi-ha-núc trở thành Thủ tướng. Năm 1960, Quốc vương Xu-ra-ma-rit qua đời, Xi-ha-núc được Quốc hội bầu làm Quốc trưởng.

– Ngày 18/3/1970, Lôn Nôn – Xi-ríc Ma-tắc (Lon Nol – Siric Matak), được sự hậu thuẫn của Mỹ đảo chính Xi-ha-núc, thành lập “Cộng hoà Khmer” (10/1970). Xi-ha-núc và Hoàng tộc sang cư trú tại Trung Quốc và sau đó thành lập Mặt trận Đoàn kết dân tộc Campuchia (FUNK) và Chính phủ Đoàn kết dân tộc Vương quốc Campuchia (GRUNK) đặt trụ sở tại Bắc Kinh.

– Ngày 17/4/1975, Pôn Pốt (Pol Pot) lật đổ chế độ Cộng hoà của Lôn Nôn, thành lập nước “Campuchia dân chủ”, thực hiện chế độ diệt chủng tàn khốc nhất trong lịch sử của Campuchia.

– Ngày 2/12/1978, Mặt trận giải phóng dân tộc Campuchia ra đời do ông Hêng Xom-rin (Heng Samrin) làm Chủ tịch. Ngày 07/1/1979, với sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, nhân dân Campuchia đã đứng lên lật đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt – Iêng Xary (Pol Pot – Yeng Sari), thành lập nước “Cộng hoà Nhân dân Campuchia”, năm 1989 đổi thành “Nhà nước Campuchia” (SOC).

– Ngày 23/10/1991, Hiệp định hoà bình Campuchia được ký kết giữa 19 nước và 4 phái Campuchia tại thủ đô Pa-ri (Pháp). Ngày 23-25/5/1993, Tổng tuyển cử lần thứ nhất ở Campuchia để bầu Quốc hội lập hiến do Cơ quan quyền lực lâm thời của Liên hợp quốc (UNTAC) tổ chức. Kết quả Đảng Bảo hoàng FUNCINPEC (FUN) giành 58 ghế, Đảng Nhân dân Campuchia (CPP): 51 ghế, Đảng Dân chủ Tự do Phật giáo (BLDP): 10 ghế và Molinaka: 1 ghế. Ngày 24/9/1993, Quốc hội lập hiến được thành lập và ban hành Hiến pháp mới, tên nước đổi thành Vương quốc Campuchia theo chế độ Quân chủ lập hiến, thực hiện chế độ đa đảng và nền kinh tế thị trường. Sau đó Chính phủ Liên hiệp CPP-FUN nhiệm kỳ I được thành lập. Nô-rô-đôm Xi-ha-núc lên ngôi Vua lần thứ hai.

– Ngày 06/10/2004, Quốc vương Xi-ha-núc tuyên bố thoái vị; ngày 08/10/2004, Quốc hội Campuchia bỏ phiếu thông qua Luật về tổ chức và hoạt động của Hội đồng Ngôi Vua; ngày 11/10/2004, Thượng viện Campuchia thông qua và quyền Quốc trưởng Chia Xim (Chea Sim) ký ban hành Luật này; ngày 14/10/2004, Hội đồng Ngôi Vua đã bầu Hoàng tử Nô-rô-đôm Xi-ha-mô-ni (Norodom Sihamoni) làm Quốc vương mới. Ngày 29/10/2004, Quốc vương N. Xi-ha-mô-ni chính thức đăng quang.

– Ngày 27/7/2008, tại Tổng tuyển cử lần thứ tư, Đảng CPP giành thắng lợi lớn với 90/123 ghế (tăng 17 ghế so với năm 2003), SRP: 26/123 (tăng 02 ghế), HRP: 03 ghế, FUN: 02 ghế, NRP: 02 ghế. Ngày 24/9/2008, Quốc hội mới đã được triệu tập và ngày 25/9/2008, Quốc hội đã bỏ phiếu tín nhiệm Chính phủ mới nhiệm kỳ 4 do CPP lãnh đạo (liên minh với FUNCINPEC); CPP nắm tất cả 26 bộ của Chính phủ mới.

III. THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ:

 1- Thể chế nhà nước: Theo Hiến pháp năm 1993 qui định Campuchia là quốc gia Quân chủ lập hiến. Hệ thống quyền lực được phân định rõ giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp gồm: Vua, Hội đồng ngôi Vua, Thượng viện, Quốc hội, Chính phủ, Toà án, Hội đồng Hiến pháp và các cơ quan hành chính các cấp.

 2- Hành pháp: Đứng đầu nhà nước: Quốc vương Nô-rô-đôm Xi-ha-mô-ni, lên ngôi ngày 29/10/2004. Nội các: Hội đồng Bộ trưởng do Quốc vương ký sắc lệnh bổ nhiệm. Hiện nay, đứng đầu Chính phủ gồm 01 Thủ tướng và 08 Phó Thủ tướng. Thủ tướng đương nhiệm là Xăm-đéc Ạ-kẹ Mô-ha Xê-na Pạ-đây Tê-chô HUN XEN (Samdech Akka Moha Sena Padei Techo HUN SEN) (người của CPP).

 3- Lập pháp:  Lưỡng viện (ngày 08/3/1999 Campuchia sửa đổi Hiến pháp, lập thêm Thượng viện).

– Quốc hội: Chủ tịch Quốc hội Xăm-đéc Ạ-kẹ Mô-ha Pô-nhia Chạ-kơ-rây HÊNG XOM-RIN (Samdech Akka Moha Ponhea Chakrei HENG SAMRIN) (người của CPP); có 123 ghế, bầu đại biểu theo chế độ phổ thông đầu phiếu, nhiệm kỳ 5 năm. Campuchia đã tổ chức bầu cử Quốc hội 4 lần (1993, 1998, 2003, 2008).

– Thượng viện: Chủ tịch: Xăm-đéc Ạ-kẹ Mô-ha Thôm-mẹ Pô-thị-xan CHIA XIM (Samdech Akka Moha Thamma Pothisal CHEA SIM) (người của CPP); nhiệm kỳ 5 năm; Thượng viện có 61 ghế, trong đó 02 ghế do Quốc vương bổ nhiệm, 02 ghế do Quốc hội chỉ định. Thượng viện nhiệm kỳ I thành lập tháng 3/1999 không qua bầu cử, các đảng có chân trong Quốc hội bổ nhiệm thành viên theo tỷ lệ số ghế có trong Quốc hội. Bầu cử Thượng viện nhiệm kỳ II diễn ra ngày 22/1/2007 thông qua bỏ phiếu kín và không trực tiếp (indirect), kết quả CPP giành 45/61 ghế, FUN: 10 ghế và SRP: 02 ghế.

– Tư pháp: Hội đồng Thẩm phán tối cao (được Hiến pháp quy định, thành lập 12/1997); Toà án Tối cao và các Toà án địa phương.

– Các đảng chính trị: Hiện nay, ở Campuchia có 57 đảng chính trị, trong đó có các Đảng lớn là: Đảng Nhân dân Campuchia (CPP), Đảng Xam Rên-xy (SRP) của Xam Rên-xy, Đảng Mặt trận đoàn kết dân tộc vì một nước Campuchia độc lập, trung lập, hoà bình và thống nhất (FUNCINPEC), Đảng Nô-rô-đôm Ra-na-rit (NRP) của Hoàng thân Nô-rô-đôm Ra-na-rit tách ra từ Đảng FUNCINPEC. Đảng FUNCINPEC hiện nay do Nhiếc Bun Chay (Nhiek Bun Chhay) đứng đầu. Hiện nay, SRP của Xam Rên-xy và Đảng Nhân quyền (HRP) của Kim Xô-kha (Kim Sokha) là hai đảng đối lập chính.

– Bầu cử cấp phường xã: Campuchia đã tổ chức hai lần bầu cử xã phường (tháng 4/2002 và tháng 4/2007). Kết quả cuộc bầu cử xã phường lần hai: Đảng CPP giành được 1.592/1.621 xã phường, đảng SRP giành 27/1.621 xã/phường, đảng NRP được 2 xã/phường. Đảng FUNCINPEC không giành được xã/phường nào.

– Campuchia đã tổ chức cuộc bầu cử Hội đồng thủ đô/tỉnh/thành và quận/huyện lần đầu tiên vào ngày 17/5/2009. Kết quả đảng CPP đã giành thắng lợi trong cả 2 cấp thủ đô/tỉnh/thành  và quận/huyện.

IV. KINH TẾ:

Campuchia là nước nông nghiệp (70% dân số làm nghề nông) sống phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, có nhiều tài nguyên quý hiếm như đá quý, hồng ngọc, vàng, gỗ… Angkor Wat được xếp hạng là một trong số các kì quan nổi tiếng của thế giới.

Nông nghiệp, dệt may, du lịch và xây dựng vẫn là những trụ cột chính hiện nay của nền kinh tế Campuchia. Kinh tế vĩ mô, hệ thống tài chính ngân hàng của Campuchia ổn định, tiếp tục giữ được mức tăng trưởng cao trên dưới 10% năm. Lượng dự trữ ngoại tệ năm 2008 của Campuchia tăng mạnh, đạt đến 2,2 tỉ USD. Cơ sở hạ tầng tại Campuchia được cải thiện nhanh chóng. Năm 2008, nông nghiệp của Campuchia đạt 2,65 tấn/ha (năm 2005 đạt 2,5 tấn) chứng tỏ ngành này còn nhiều tiềm năng phát triển và có sức hấp dẫn lớn. Campuchia là quốc gia còn nhiều tiềm năng có thể duy trì sức cạnh tranh như tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực trẻ, nhân công giá rẻ. Việc các đối tác phát triển tiếp tục tăng ODA năm 2009 cho Campuchia (trên 950 triệu USD) trong khi khủng hoảng tài chính đang trầm trọng chứng tỏ sự tin tưởng của họ đối với Campuchia đang được củng cố.

Thị trường xuất khẩu chính của Campuchia là Mỹ, EU, Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam (hiện Việt Nam là bạn hàng lớn thứ 4 của Campuchia).

Do khủng hoảng kinh tế, tài chính thế giới, kinh tế Campuchia năm 2008 cũng bị ảnh hưởng: Lạm phát lên tới trên 20%, GDP năm 2008 chỉ tăng 6,7%. Năm 2009, kinh tế Campuchia có thể khó khăn hơn và có thể chỉ tăng trưởng hơn 4%.

V. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI:
Theo quy định của Hiến pháp, Campuchia thực hiện chính sách trung lập, không liên kết vĩnh viễn, không xâm lược hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác. Chính sách phát triển kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, khách du lịch, tích cực hội nhập quốc tế và khu vực đã đạt nhiều thành tựu. Campuchia là thành viên thứ 10 của ASEAN (tháng 4/1999), thành viên chính thức thứ 148 của WTO (tháng 9/2003), gia nhập ASEM tại Hội nghị cấp cao ASEM 5 (tháng 10/2004) tại Hà Nội; và đang tích cực vận động để tham gia APEC trong thời gian sớm nhất. Campuchia cũng là thành viên tích cực trong hợp tác khu vực như: Uỷ hội Mê Công quốc tế (MRC); Khu vực Tam giác phát triển Việt Nam-Lào-Campuchia (CLV); Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng (GMS); Chiến lược hợp tác kinh tế ba dòng sông Ayeyawadi-Chao Praya-Mekong (ACMECS); Hành lang kinh tế Đông Tây (WEC)…

VI. QUAN HỆ VỚI VIỆT NAM:

1- Về chính trị:
  – Hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 24/6/1967.  Năm 2007, hai nước đã tổ chức nhiều hoạt động trọng thể kỷ niệm 40 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao.

– Năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, sau một thời gian lãnh đạo đã tách ra thành 3 đảng độc lập (Đảng Lao động Việt Nam năm 1951; Đảng Nhân dân cách mạng Lào năm 1955; Đảng Nhân dân cách mạng Khmer năm 1951).

– Từ 1954-1970, chính quyền Xi-ha-núc thực hiện chính sách hoà bình trung lập tích cực, từng bước có quan hệ tốt với các lực lượng cách mạng Việt Nam, ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước và thống nhất tổ quốc của Việt Nam. Tháng 3/1965, Hội nghị nhân dân các nước Đông Dương họp ở Phnôm Pênh, Mặt trận đoàn kết chống Mỹ của nhân dân các nước Đông Dương được hình thành.

– Từ tháng 4/1975-7/1/1979: Chế độ diệt chủng Pôn-pốt cầm quyền ở Campuchia. Chúng thi hành chính sách thù địch với Việt Nam, gây ra nhiều cuộc xung đột ở khu vực biên giới Tây Nam và tiến hành cuộc chiến tranh biên giới chống Việt Nam.

– Ngày 7/1/1979, nước Cộng hoà nhân dân Campuchia ra đời. Từ 1979-1989, quân đội Việt Nam ở Campuchia giúp nhân dân Campuchia ngăn chặn chế độ diệt chủng Pôn-pốt và giúp nhân dân Campuchia hồi sinh. Cuối 1989, Việt Nam rút hết quân khỏi Campuchia. Campuchia vừa long trọng kỷ niệm 30 năm ngày lật đổ Chế độ diệt chủng Khmer đỏ (7/1/1979-7/1/2009).

– Việt Nam và CHND Campuchia đã ký Hiệp định về Vùng nước lịch sử năm 1982, Hiệp ước về Nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới quốc gia giữa hai nước năm 1983, Hiệp định về quy chế biên giới năm 1983, Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia Việt Nam-Campuchia năm 1985; (nhân chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng Hun Xen tháng 10/2005, hai nước đã ký Hiệp ước Bổ sung Hiệp ước Hoạch định Biên giới Quốc gia năm 1985).

– Tháng 10/1991, Việt Nam tham gia ký Hiệp định Pa-ri về Campuchia. Tháng 5/1993, Campuchia tiến hành Tổng tuyển cử do LHQ tổ chức bầu Quốc hội lập hiến, sau đó Chính phủ Hoàng gia Campuchia được thành lập.

– Từ năm 1993 đến nay, quan hệ Việt Nam-Campuchia không ngừng được củng cố và phát triển về mọi mặt. Đặc biệt, tại chuyến thăm Campuchia của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tháng 3/2005, hai bên đã nhất trí phương châm phát triển quan hệ hai nước trong thời kỳ mới theo hướng “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài”.

2- Về hợp tác kinh tế, thương mại, khoa học-kỹ thuật, văn hoá, an ninh, quốc phòng,  giữa hai nước:
  a. Hợp tác trên lĩnh vực kinh tế, thương mại, văn hoá: hai nước đã thành lập Uỷ ban Hỗn hợp (UBHH) về hợp tác Kinh tế, Văn hoá, Khoa học kỹ thuật. Từ tháng 4/1994 đến nay UBHH đã tiến hành được 10 kỳ họp. Tại mỗi kỳ họp UBHH, hai nước kiểm điểm việc thực hiện kế hoạch hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, thương mại, quân sự, an ninh, y tế, giáo dục…, đồng thời đưa ra kế hoạch mới cho những năm tiếp theo. Nhìn lại quan hệ hai nước trong những năm qua đã có những bước phát triển tích cực và có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực. Đặc biệt kim ngạch buôn bán hai chiều giữa hai nước không ngừng tăng, năm sau cao hơn năm trước trung bình 40% (năm 2006: 950 triệu USD, năm 2007: 1.181 tỷ USD, năm 2008: 1,7 tỷ USD). Hai nước cũng thống nhất nhiều biện pháp thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại và đặt mục tiêu phấn đấu kim ngạch thương mại hai chiều đến năm 2010 đạt trên 2 tỷ USD.

Hai nước cũng quan tâm thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực mà hai bên có tiềm năng, thế mạnh như giáo dục-đào tạo, năng lượng-điện, y tế, giao thông vận tải, v.v…

  1. Hợp tác trên lĩnh vực an ninh, quốc phòng: được hai bên chú trọng đẩy mạnh. Các ngành quốc phòng, an ninh hai nước tiếp tục thúc đẩy hợp tác theo các thoả thuận đã ký. Hội nghị Hợp tác và Phát triển các tỉnh biên giới Việt Nam-Campuchia đã đánh dấu một cơ chế hợp tác mới giữa các tỉnh giáp biên nhằm bảo đảm an ninh tại khu vực biên giới hai nước. Đến nay, hai nước đã tổ chức Hội nghị trên được năm lần.
  2. Biên giới: Hai bên đang tích cực triển khai công tác phân giới cắm mốc (PGCM) và đã được hai bên quan tâm triển khai và đạt được kết quả đáng kể, tuy nhiên tiến độ còn chậm. Cuộc họp tháng 2/2008 của Ủy ban liên hợp biên giới hai nước đã thống nhất điều chỉnh Kế hoạch tổng thể PGCM, nhất trí phấn đấu hoàn thành PGCM biên giới trên bộ giữa hai nước vào 2012 trong đó đã định ra mục tiêu cho từng năm từ 2008-2012. Lãnh đạo hai nước tiếp tục khẳng định quyết tâm sẽ hoàn thành công tác PGCM biên giới trên bộ vào nửa đầu năm 2012, coi việc hoàn thành công tác PGCM là nhiệm vụ lịch sử, là di sản mà thế hệ lãnh đạo hai nước hôm nay để lại cho thế hệ mai sau nhằm xây dựng một đường biên giới chung hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển, trên cơ sở phù hợp với truyền thống, phong tục tập quán của nhân dân hai nước.
  3. Hợp tác giữa các địa phương hai nước, nhất là các tỉnh giáp biên và các tỉnh, thành phố có quan hệ kết nghĩa cũng đang được đẩy mạnh, góp phần vào việc củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị láng giềng truyền thống và hợp tác toàn diện giữa hai nước.

Bên cạnh quan hệ hợp tác song phương, hai bên đẩy mạnh hợp tác trong khuôn khổ ASEAN, trong các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế như hợp tác trong Ủy hội sông Mê Công (MRC), Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng (GMS), Chương trình phát triển các vùng nghèo liên quốc gia dọc Hành lang Đông – Tây (WEC), Chiến lược hợp tác kinh tế ba dòng sông Ayeyawady-Chao Praya-Mekong (ACMECS), Campuchia-Lào-Mianma-Việt Nam (CLMV), Tam giác phát triển ba nước Campuchia-Lào-Việt Nam (đang trong quá trình thể chế hoá và xây dựng dự án gọi vốn đầu tư)./.

                                                                                                                                        Tháng 12 năm 2009

Nguồn: Bộ ngoại giao Việt Nam

Người sưu tầm: Hoàng Thị Kim Oanh

Chia sẻ

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn!
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây