Bằng cấp đi Hoàng Sa thời Minh Mạng và mấy điều suy luận

725

Sự chỉ đạo thống nhất từ trung ương tới địa phương về việc đi Hoàng Sa – Trường Sa thể hiện rõ trong các bộ chính sử của triều Nguyễn, như “Đại Nam thực lục”, “Quốc triều chính biên toát yếu”, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ”…, hoặc trong các châu bản triều Nguyễn. Nội dung của văn bản này cũng đã thể hiện rõ điều đó, vì ngay  chính ở dòng đầu của trang đầu tiên cũng đã ghi là (quan Bố – Án) “vâng lệnh của Bộ Binh”!

Tượng đài Đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải (Ảnh Lê Phú Nguyện)Tượng đài Đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải (Ảnh Lê Phú Nguyện)

Xác lập niên đại, nội dung và chủ thể văn bản

Trong suốt thời gian qua, kể từ ngày 31/3/2009, ngày chúng tôi được gia tộc họ Đặng làng An Hải, huyện Lý Sơn bàn giao văn bản cổ của dòng họ liên quan đến chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa, nhiều phương tiện thông tin đại chúng trong nước lẫn ngoài nước đã đưa tin, bình luận về việc phát hiện, cũng như sự tự nguyện hiến tặng, bàn giao cho nhà nước một văn bản cổ mà gia tộc họ Đặng ở thôn Đồng Hộ, làng An Hải, huyện Lý Sơn đã gìn giữ suốt 175 năm qua. Nếu thử vào Google và đánh vào đó mấy dòng: “tài liệu cổ về Hoàng Sa” hay “tờ lệnh Hoàng Sa”, hoặc “Văn bản cổ của dòng họ Đặng Lý Sơn” hoặc những từ ngữ nào đó liên quan đến việc lưu giữ, bàn giao tài liệu quý này chắc hẳn chúng ta sẽ thấy có hàng trăm thư mục liên quan trực tiếp đến sự kiện này. Giờ đây, nếu kể lại quá trình từ lúc tiếp cận tư liệu đến khi văn bản cổ này được bàn giao cho Bộ Ngoại giao lẫn những bình luận sau lúc bàn giao, và những suy luận chung quanh tài liệu này, chắc hẳn không thể nào đầy đủ.

Về nội dung văn bản cổ này (xin xem bản phiên âm và dịch nghĩa kèm theo), chắc hẳn nhiều người đã biết qua thông tin đại chúng. Một vài sai sót nhỏ mà báo chí đã đưa tin ngay sau ngày chúng tôi tiếp cận văn bản cũng không phải làm mất đi giá trị đích thực của văn bản (như về niên đại, một vài tờ báo, vài trang Web ghi là năm Ất Mùi – 1835, mà đúng ra phải là năm Giáp Ngọ – 1834; hoặc về chủ thể văn bản, không phải là của vua Minh Mạng mà là của “quan Bố -Án”, tức của quan Bố chánh và Án sát, như có viết ở trang đầu văn bản, và vì thế cũng không thể gọi là “sắc chỉ”). Dù không phải sắc chỉ của vua, hoặc lệnh của Bộ Binh, nhưng chúng ta cũng thấy rằng, việc đi Hoàng Sa lẫn Trường Sa để đo đạc, vẽ bản đồ, cắm mốc, dựng bia chủ quyền, trồng cây trên đảo là có sự chỉ đạo thống nhất của nhà nước phong kiến Việt Nam, đặc biệt là vào thời Minh Mạng. Sự chỉ đạo thống nhất từ trung ương tới địa phương về việc đi Hoàng Sa – Trường Sa thể hiện rõ trong các bộ chính sử của triều Nguyễn, như “Đại Nam thực lục”, “Quốc triều chính biên toát yếu”, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ”…, hoặc trong các châu bản triều Nguyễn. Nội dung của văn bản này cũng đã thể hiện rõ điều đó, vì ngay  chính ở dòng đầu của trang đầu tiên cũng đã ghi là (quan Bố – Án) “vâng lệnh của Bộ Binh”!

Nhưng vì sao lại chỉ có quan Bố chánh và Án sát đồng đóng dấu triện trên văn bản cổ này? Sao không thấy sự hiện diện của quan Tuần phủ? Chúng ta biết rằng, tỉnh Quảng Ngãi được chính thức thành lập (là đơn vị cấp tỉnh) là vào năm 1832 (năm Minh Mạng thứ 13). Theo “Đại Nam thực lục” của Quốc sử quán triều Nguyễn, và cả những ghi chép trong “Hải Nam tạp trứ” của Thái Đình Lan – một nho sinh Đài Loan bị gió bão đánh trôi giạt vào bờ biển tỉnh Quảng Ngãi vào thời điểm này, mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu, lúc bấy giờ, tỉnh Quảng Ngãi chưa có quan Tuần phủ riêng. Mãi đến tháng 6 (nhuận) năm Minh Mạng thứ 16 (1835) tiến sĩ Phan Thanh Giản mới bổ nhiệm làm Bố chính Quảng Nam kiêm Tuần phủ Nam –Ngãi (cả Quảng Nam lẫn Quảng Ngãi, nhưng chỉ đóng dinh thự ở Quảng Nam). Hai vị quan trực tiếp xử lý toàn bộ công việc chính trị, hành chính, quân sự… tại Quảng Ngãi là Bố chánh (mà lúc đó Ty Bố chánh gọi là Ty Phiên) và Án sát (Ty Án sát gọi là Ty Niết). Hai ty Phiên và Niết đều đặt tại tỉnh thành Quảng Ngãi (nằm trong khu vực cổ thành). Bố chánh Quảng Ngãi 1834 là Lê Nguyên Trung, rồi sau đó là Trương Văn Uyển, 1835 là Tôn Thất Bạch; Án sát Quảng Ngãi 1834 và 1835 là Nguyễn Đức Hội rồi Nguyễn Thế Đạo, và sau đó là Đặng Kim Giám (hiện nay gia tộc họ Đặng huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa cũng đã cung cấp cho chúng tôi một số tài liệu Hán Nôm liên quan đến ông Đặng Kim Giám, rất tiếc chưa có điều kiện kê cứu trong bài viết này). Khi cần ban một quyết định cơ mật, thì cả quan Bố chánh và Án sát cần phải hiệp y. Vì thế ta không có gì ngạc nhiên khi trên văn bản cổ này có đóng dấu của quan Án sát lẫn quan Bố chánh. Và cũng chính từ 2 con dấu đỏ đóng trên văn bản này chúng ta cũng có thể suy luận thêm, việc cử các ông Võ Văn Hùng, Đặng Văn Siểm, và nhiều người khác (có ghi trong văn bản) đi Hoàng Sa còn là một việc hết sức quan trọng và cơ mật.

Họ là những ai trong “tờ lệnh” đi Hoàng Sa?

Trong văn bản cổ của dòng họ Đặng làng An Hải, Lý Sơn có nói rõ về thời gian ấn định để các phái viên, biền binh, thủy thủ đi Hoàng Sa, đó là: cứ vào hạ tuần tháng ba hàng năm. Lần giở các bộ chính sử như Đại Nam thực lục, Quốc triều chính biên toát yếu, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ… và châu bản của triều Nguyễn, lẫn các tài liệu khác có nói về những chuyến hải trình đi Hoàng Sa vào các năm 1834, 1835, 1836, 1837, 1838… tức là các năm Minh Mạng thứ 15, 16,  17, 18, 19…, sẽ thấy danh tính những cai đội, đội trưởng, chánh đội trưởng suất đội, như Trương Phúc Sĩ, Phạm Văn Nguyên, Phạm Hữu Nhật, Phạm Văn Biện, các hướng dẫn viên đường thủy như Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sanh, các viên giám thành vẽ họa đồ Hoàng Sa là Trần Văn Vân, Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Văn Hoàng… Tên tuổi họ rõ ràng là có được ghi trong sử sách, dù trong số đó có năm, những người đi Hoàng sa, đo vẽ bản đồ Hoàng Sa chưa thật sự hoàn thiện, lại về chậm trễ nên mỗi người bị phạt 80 trượng, như chuyến đi Hoàng Sa năm Minh Mạng thứ 16 (1835) mà cai đội Phạm Văn Nguyên dẫn đầu. Nhưng còn hàng trăm binh phu, thủy thủ đã cùng đi với họ trong những năm này đều là vô danh. Điều đó không có gì là lạ, bởi sử sách không thể nào ghi đầy đủ tên tuổi, bản quán của tất cả binh phu cùng đi với họ trong từng năm một. Dù không phải đi Hoàng Sa, lẫn Trường Sa, tất cả đều phải hy sinh, nhưng hàng trăm ngôi mộ gió còn hiện diện trên đất đảo Lý Sơn cũng đã cho chúng ta nghĩ về một sự hy sinh thầm lặng không hề nhỏ.

Giờ đây, khi nghĩ về những người lính vô danh đã từng đi Hoàng Sa, cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền, chúng ta càng tiếc  nuối, khi nghĩ rằng, giá như các châu bản của triều Nguyễn không vì chiến tranh, vì mối mọt, vì bày bán cùng với giấy lộn ở chợ Đông Ba, Nam Phố trong hơn 60 năm trước thì có lẽ chúng ta còn biết thêm tên tuổi của họ (trong số hơn 3.200 tập – theo Viện Hán Nôm, mà mỗi tập dày từ 6 đến 10cm, với trên dưới 600 trang giấy viết tay đến  năm 1975, sau khi kiểm kê chỉ còn có 611 tập, tức chỉ còn có 1/5 trong số ấy). Và cũng vì thế, có thể nói, văn bản cổ của dòng họ Đặng lưu giữ 175 năm qua, không chỉ góp phần bổ sung cho những điều ghi trong chính sử, châu bản của Nguyễn, mà còn xác lập thêm một số danh tính của những “hùng binh Hoàng Sa” như cách gọi của vua Tự Đức.

Họ là những ai trong văn bản cổ này? Người đầu tiên phải nhắc tới, đó chính là Võ Văn Hùng. Văn bản cổ của dòng họ Đặng cho biết, Võ Văn Hùng giỏi việc đi thuyền, rành rẽ hải phận, là người đã được cử đi từ năm trước (1833), nên lần này (1834) lại  được quan Án sát và Bố Chánh tỉnh Quảng Ngãi tiếp tục giao nhiệm vụ tuyển chọn thêm những binh phu am hiểu hải trình, đưa các phái viên ở kinh thành, biền binh, thủy quân thẳng tiến ra đảo Hoàng Sa.

Như đã nói ở trên, vào năm thứ Minh Mạng thứ 16 (Ất mùi – 1835), chuyến đi Hoàng Sa về chậm trễ, đo vẽ bản đồ chưa chu toàn, cai đội Phạm Văn Nguyên và các viên giám thành Trần Văn Vân, Nguyễn Văn Tiện, Nguyễn Văn Hoàng bị phạt mỗi người 80 trượng, nhưng Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sanh, là những người có công trong việc hướng dẫn binh thuyền, tận tậm đo đạc hải trình nên được thưởng mỗi người 1 quan Phi Long ngân tiền, các dân phu hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định cùng đi mỗi người cũng được thưởng 1 quan tiền. Và đến năm Minh Mạng thứ 18 (1837) cũng chính Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sanh cùng Thủy sư suất đội Phạm Văn Biện, người chỉ huy chuyến đi Hoàng Sa lần này, do khởi hành chậm trễ nên đều bị phạt (nhưng binh lính thì vẫn được thưởng 2 quan tiền!). Thật là quân lệnh nghiêm minh, thưởng phạt rõ ràng, và có lẽ việc thưởng phạt nghiêm minh ấy còn chứng tỏ rằng, thời ấy sứ mệnh đi Hoàng Sa lẫn Trường Sa là một nhiệm vụ cực kỳ “quan yếu”, như đã có ghi trong văn bản cổ của dòng họ Đặng làng An Hải.

Từ những suy luận về ông Võ Văn Hùng nêu trên, ta có thể thấy, những người được được nêu tên trong văn bản cổ này, như Đặng Văn Siểm, Dương Văn Định.. chắc hẳn cũng đã liên tiếp đi Hoàng Sa và Bắc Hải (cả Trường Sa) trong nhiều năm sau đó, trừ những người xấu số, phải chịu bó xác người bằng một đôi chiếu, 7 sợi dây mây, 7 chiếc đòn tre… để đồng đội trả trôi trên mặt biển bao la với chút hy vọng mỏng manh là xác người có thể được trôi về bản quán. Họ cùng với các vị chỉ huy: Cai đội Trương Phúc Sĩ (vào năm 1833, 1834), cai đội Phạm Văn Nguyên (vào năm 1835), Thủy quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật (năm 1836), Thủy sư suất đội Phạm Văn Biện (năm 1837) đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ các hòn đảo, cắm cột mốc chủ quyền, dựng miếu…với vô vàn thử thách.

Truy tìm bản quán

Trong văn bản cổ của gia tộc họ Đặng, ông Võ Văn Hùng rõ ràng là người có ghi tên trong chính sử. Vậy ông Võ Văn Hùng là người ở đâu? Những gì còn lưu lại tại gia tộc họ Võ (Văn) làng An Vĩnh huyện Lý Sơn, đặc biệt là gia phả họ Võ được lập vào thời Gia Long, bổ sung vào thời Bảo Đại, cho phép ta khẳng định: ông Võ Văn Hùng chính là người thuộc gia tộc họ Võ (Văn) tại làng AnVĩnh, một dòng họ có nhiều người đi Hoàng Sa trong nhiều thế kỷ, và Võ Văn Hùng chính là hậu duệ của Võ Văn Khiết (cai đội Hoàng Sa, 1776), Võ Văn Phú (cai đội Hoàng Sa, 1803).

Bên cạnh ông Võ Văn Hùng, trong văn bản cổ có ghi những người phải thi hành nhiệm vụ (khác): đó là Đặng Văn Siểm (làm đà công, tức lái thuyền), Dương Văn Định, và các thủy thủy cùng đi, gồm: Phạm Quang Thanh (hay Tình, vì hai chữ này viết gần giống nhau, lại bị mờ chỗ này), Ao Văn Trâm, Trần Văn Kham, Nguyễn Văn Mạnh, Trần Văn Lê, Nguyễn Văn Dinh, Võ Văn Công, Trương Văn Tài.

Trong số người nêu trên có 4 người ghi rõ là ở huyện đảo Lý Sơn, mà lúc đó là chỉ là xã Lý Sơn, với hai phường là An Vĩnh và An Hải, thuộc tổng Bình Hà, huyện Bình Sơn. Phường An Hải có ông  Đặng Văn Siểm, Nguyễn Văn Mạnh;  Phường An Vĩnh có ông Phạm Quang Thanh, Trần Văn Kham.

Hai người phụ trách súng đạn là Võ Văn Công và Trương Văn Tài, không được ghi rõ quê quán, nhưng theo chúng tôi, họ cũng là người của Lý Sơn. Ông Võ Văn Công là người dòng họ Võ (Văn) ở An Vĩnh (vì có ghi tên trong gia phả). Ông Trương Văn Tài có thể thuộc dòng họ Trương ở An Hải – một trong lục tộc tiền hiền của làng này. Sở dĩ ta có thể suy đoán ra điều đó, vì những dân binh này đều do chính ông Võ Văn Hùng tuyển chọn. Nếu đúng như vậy, thì trong số 11 người có tên trong văn bản cổ của dòng họ Đặng, 7 người là người của huyện đảo Lý Sơn (Võ Văn Hùng, Đặng Văn Siểm, Nguyễn Văn Mạnh, Phạm Quang Thanh, Trần Văn Kham, Võ Văn Công và  Trương Văn Tài).

Ngoài các ông ở Lý Sơn, trong văn bản cổ này còn có những người thuộc các huyện khác trong tỉnh Quảng Ngãi. Ông Ao Văn Trâm được ghi là ở Lệ Thủy Đông Nhị, mà Lệ Thủy Đông Nhị vốn là một xã cũng thuộc tổng Bình Hà, huyện Bình Sơn (có thể tương đương với xã Bình Trị hiện nay, tức là nơi có Nhà máy lọc dầu Dung Quất). Tra cứu Đồng Khánh địa dư chí, phần về tỉnh Quảng Ngãi, ta sẽ thấy địa danh Lệ Thủy Đông Nhị (xã) còn tồn tại đến thời vua Đồng Khánh (1885 – 1888). Chúng tôi cũng đi thực địa tại Lệ Thủy Đông Nhị, tại đây có khá đông gia đình họ Ao, vốn người Việt gốc Hoa, tên gọi vùng đất này là Lệ Thủy Đông Nhị xã còn tồn tại đến thời kháng chiến chống Pháp. Chính ông Ao Võ (93 tuổi) đã cung cấp cho chúng tôi hơn 400 trang liệu Hán Nôm liên quan đến dòng họ Ao tại đây.

Ông Trần Văn Lê được ghi là ở Bàn An ấp, tức vốn là một ấp thuộc thôn Thạch Than, tổng Ca Đức, huyện Mộ Hoa (bao gồm cả phần đất Mộ Đức và Đức Phổ hiện nay, nay tên gọi Bàn An dùng để chỉ một thôn thuộc xã Phổ Quang, huyện Đức Phổ). Ông Nguyễn Văn Dinh (Doanh) được ghi là ở thôn Thạch Than, xã An Thạch. Đối chiếu với các sử liệu cũ, có thể thấy, thôn Thạch Than, xã An Thạch cũng thuộc tổng Ca Đức, huyện Mộ Hoa (nay tên gọi Thạch Than chỉ dùng để chỉ một thôn thuộc xã Đức Phong, huyện Mộ Đức). Như vậy hai ông Trần Văn Lê và Nguyễn Văn Dinh là cùng một quê quán, đều ở thôn Thạch Than, xã An Thạch, tổng Ca Đức, huyện Mộ Hoa. Xã An Thạch thời ấy có lẽ là một vùng đất trải dài từ Đức Phong (Mộ Đức) qua Phổ An và cả Phổ Quang (Đức Phổ) hiện nay.

Riêng về ông Dương Văn Định và Đặng Văn Siểm, là những người được quan Bố chánh và Án sát trực tiếp chỉ định “cứ thử” ở cuối văn bản cổ của dòng họ Đặng, tức phải vânh mệnh thi hành, như đã nói ở trên, thì ông Đặng Văn Siểm đã được xác định rõ là người phường An Vĩnh (Lý Sơn), nhưng về ông Dương Văn Định, hiện vẫn chưa xác định được ông Định là ở làng quê nào hiện nay. Văn bản cổ chỉ ghi là ông Dương Văn Định ở thôn Hoa Diêm (và cũng không ghi rõ xã, tổng, huyện). Nhưng thôn Hoa Diêm thời ấy nay thuộc địa phương nào? Lục tìm các thư tịch cũ, không thấy có đia danh nào là Hoa Diêm. Hiện nay, các thôn trong tỉnh Quảng Ngãi có chữ Diêm (muối, tức làng làm ruộng muối), có: Tân Diêm (thuộc tổng Triêm Đức, huyện Mộ Đức, nay thuộc xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ), thôn Tuyết Diêm (thuộc tổng Bình Hà, huyện Bình Sơn, nay thuộc xã Bình Thuận, huyện Bình Sơn), thôn Diêm Điền (thuộc tổng Bình Châu, huyện Bình Sơn, nay thuộc xã Bình Châu, huyện Bình Sơn)…Như chúng ta đã biết, vì húy kỵ tên mẹ vua Thiệu Trị nên vào năm 1841 (năm Thiệu Trị thứ nhất), tất cả những tên người lẫn địa danh có chữ Hoa đều phải thay đổi, như Thanh Hoa, đổi thành Thanh Hóa, Đông Hoa đổi thành Đông Ba, Mộ Hoa đổi thành Mộ Đức…Vậy thì địa danh Hoa Diêm vì có chữ Hoa nên chắc chắn cũng phải đổi. Nhưng trong 3 địa danh có chữ Diêm ở sau là Diêm Điền, Tân Diêm, Tuyết Diêm, thì thôn nào vốn là thôn Hoa Diêm? Theo chúng tôi, có lẽ thôn Hoa Diêm của ông Dương Văn Định chính là thôn Tuyết Diêm, thuộc xã Bình Thuận huyện Bình Sơn hiện nay, tức là nơi có bến cảng Dung Quất bay giờ. Sở dĩ chúng tôi tạm thời xác định như trên, vì thời ấy Lý Sơn thuộc tổng Bình Hà, huyện Bình Sơn. Các dân binh được tuyển chọn, ngoài hai ông Trần Văn Lê và Nguyễn Văn Dinh là những người thuộc tổng Ca Đức, huyện Mộ Hoa (nay thuộc Đức Phổ và Mộ Đức), thì những người còn lại đều thuộc tổng Bình Hà, huyện Bình Sơn. Các thôn Diêm Điền, Tân Diêm đều thuộc các tổng khác (riêng Tân Diêm, nay thuộc Đức Phổ, thì với khoảng cách địa lý khá xa ấy càng không hợp lý).  Có lẽ để xác định chính xác hơn cần phải tiếp tục nghiên cứu từ thực địa, đặc biệt qua thư tịch Hán Nôm.

(Còn nữa)

                   TS. Nguyễn Đăng Vũ

(Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ngãi)

Chia sẻ

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn!
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây